KHÚC CA ĐÀM TỘC
Kính tặng dòng họ nhân ngày
hội thảo 23 tháng 2 Ất Mùi 2015
Lê Hồng Chinh
KHÚC I: TIẾT NGHĨA TỪ
Vẫn còn dấu cũ nền xưa
Trải bao thế hệ, nắng mưa…cuộc đời
Hiển linh nguyên khí đất trời
Tấm gương tiết nghĩa sáng ngời lòng dân
Tiết nghĩa từ - cõi tri ân
Nét son thắm mãi, xa gần khắc ghi
KHÚC II: ANH LINH PHÁT TIẾT
Trở về phường cũ Chung Mi (1)
Gia phong thanh đạm, nét quê tảo tần
Trời cho có phúc có phần (2)
Anh linh phát tiết tinh thần thanh danh
Dày công nghiên bút học hành
Đệ tam giáp – xứ Đông Ngàn – Sắc phong
Văn chương uyên bác một vùng
Tao Đàn chủ soái Thánh tông mời vào
Vua tin đức rộng tài cao
Ân ban cho việc bang giao xứ người (3)
Thấu nhân nghĩa, hiểu thiên thời
Trung quân ái quốc một đời thanh liêm
“Thiên hạ đệ nhất thi nhân” (4)
Hồn thơ thương cảm thần dân cơ hàn
Không tham lọng tía tàn vàng
Về quê dạy học mở mang nhân tình
Từ nơi cửa Khổng sân Trình
Học trò: Bảng nhãn Trạng nguyên nên người (5)
Thám hoa Hoàng giáp rạng ngời
Thầy là thầy của muôn đời cháu con
Khắc vào gia phả dấu son
Đàm tộc muôn thủa vẫn còn lưu danh
KHÚC III: CẦU VÒNG YÊN THẾ - KHÚC CA BI TRÁNG
Đương khi triều chính yên lành
Bỗng đâu sóng gió tranh dành đế vương
Lòng trung nghĩa lẽ cương thường
Cụ tuân theo chiếu cần vương lên đường
Một vùng đồi núi biên cương
Dựa vào dân lập chiến trường – Trung quân
Gian lao vẫn vững tinh thần
Thiếu lương kiếm củ rừng ăn qua ngày
Tướng quân bền nghĩa tớ thầy
Đồng tâm hiệp lực mong ngày Lê hưng
Giữa vùng Yên Thế-Cầu Vồng
Quân neo thế mỏng muôn trùng khó khăn
Hỡi ơi! Lực bất tòng tâm
Cụ đành mang chữ Trung quân về trời
Vợ cùng con gái theo người
Tấm gương tiết liệt chuyện đời còn ghi
Vọng về phường cũ Chung Mi
Lòng dân năm tháng khắc ghi tên người
KHÚC IV: NỐI NGHIỆP
Vốn dòng khoa bảng trên đời
Tộc Đàm sinh dưỡng những người tài hoa
Đã làm vinh hiển danh gia
Thượng thư Đàm Giản đỗ khoa Kỷ Mùi
Đất lành cây nảy trăm chồi
Mực thơm mấy thuở đã bồi đắp nên
Còn đây sáng rõ tuổi tên
Giúp vua dạy chữ thánh hiền – Quốc Sư
Công danh bổng lộc chẳng mơ
Chỉ xin mấy cuốn thi thư giúp đời (6)
Thanh bần guốc mộc áo sồi
Nhà tranh vách đất như người dân quê
Đông Ngàn – Hương Mạc – Làng Me
Vẫn lưu sử sách nói về Đàm Công (7)
Trứng Rồng lại nở ra rồng
Trăm năm con cháu nối dòng thế gia
Là người thông tuệ hiền hòa
Đàm Liêm tiến sĩ vốn nhà khôi khoa(8)
Nước non vẫn nước non nhà
Việt Nam xã hội cộng hòa thời nay
Cháu con lại cất cánh bay
Dựng xây đất nước chung tay góp phần
Vinh danh nhị vị tướng quân (9)
Vượt bao gian khó cõi tâm vững vàng
Tìm về nguồn cội tộc Đàm
Dù xa cách tự Cao Bằng bao năm
Tổ tiên khởi nghiệp tài năng
Con đường học vấn – vầng trăng vẫn tròn
Đàm Thanh Sơn,Đàm Trung Đồn… (10)
Giáo sư tiến sĩ là con cháu nhà
***
Bây giờ Hương Mạc quê ta
Cháu con nối nghiệp ông cha trưởng thành
Người công chức, người kinh doanh...
Phát huy thể chất tinh anh hiền tài
Cùng nhau sát cánh chung vai
Phồn vinh ước nguyện – ngày mai đang chờ
Xum vầy trước Tiết nghĩa từ
Tự hào cùng một bến bờ sinh ra
KHÚC V: VĨ THANH
“Trăm năm trong cõi người ta” (11)
Thủy chung tiết nghĩa vẫn là gương soi
Hậu sinh xin viết mấy lời
Dâng lên tiên tổ, sáng soi lòng thành
Ngày 05 tháng 2 năm Ất Mùi (2015)
Chú thích:
(1) Thời nhà Trần đến nhà hậu Lê, thôn Hương Mạc có tên gọi là Chung Mi phường
(2) Gia phả của dòng họ lưu truyền ngôi mộ Di tổ, Khải tổ (ông, bố cụ Đàm Thận Huy) được thầy địa lý Tả Ao đặt vị trí đắc địa tại xứ đồng khu Xiên Hệ và bãi Đồng Am thuộc thôn Hương Mạc, xã Hương Mạc.
(3) Cụ Đàm Thận Huy được 02 lần nhà Vua cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc
(4) Được nhà Vua khen thơ của cụ “ Thiên hạ đệ nhất thi nhân”
(5) Cụ dạy các học trò; Nguyễn Giản Thanh đỗ Trạng Nguyên, Nguyễn Chiêu Huấn đỗ Bảng Nhãn, Nguyễn Hữu Nghiêm đỗ Thám Hoa.
(6) cụ Đàm Quốc Sư cháu 7 đời cụ Đàm Thận Huy khi về trí sĩ chúa Trịnh Cương hỏi cụ muốn thứ gì để triều đinh ban tặng, cụ chỉ xin mấy bộ sách quý về dạy học và để lại cho con cháu.
(7) Tên húy cụ Quốc là Đàm Công Hiệu
(8) Cụ Đàm Liêm hậu duệ đời thứ 15, đỗ Tiến sĩ khoa Ât Mùi (1895)
(9) Năm 1989 thượng tướng Đàm Quang Trung, trung tướng Đàm Ngụy về làm lễ tổ
(10) GS Đàm Thanh Sơn một trong hai GS người Việt
(11) Trích câu thơ trong truyện Kiều (Nguyễn Du)